(LĐXH)- Khu vực trung du miền núi phía Bắc có vị trí đặc biệt quan trọng về kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng. Đây cũng là vùng có điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội còn nhiều khó khăn, địa hình đồi núi, chia cắt, giao thông đi lại khó khăn, thường xuyên chịu nhiều tác động của thiên tai, biến đổi khí hậu, như lũ, sạt lở, hạn hán… ảnh hưởng lớn đến đời sống của người dân. Sau 15 năm thực hiện Nghị quyết số 37-NQ/TW ngày 01/7/2004 của Bộ Chính trị về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo quốc phòng, an ninh vùng trung du và miền núi Bắc Bộ, các nhiệm vụ trọng tâm của ngành LĐTB&XH liên quan đã được ngành triển khai cơ bản có hiệu quả, trong đó nổi bật là lĩnh vực giảm nghèo.
Thực hiện Nghị quyết số 37-NQ/TW ngày 01/7/2004 của Bộ Chính trị về phương hướng phát triển kinh tế xã hội và đảm bảo quốc phòng, an ninh vùng Trung du và miền núi Bắc bộ đến năm 2020, Ban Cán Sự Đảng Bộ LĐTB&XH đã chủ động chỉ đạo thực hiện đồng bộ các biện pháp và các nhiệm vụ được giao có liên quan đến nội dung cụ thể. Theo đó, tổ chức quán triệt, tuyên truyền theo đúng tinh thần chỉ đạo của Nghị quyết 37-NQ/TW của Bộ Chính trị tới từng đảng viên, cán bộ chủ chốt. Bộ LĐTB&XH đã yêu cầu các đơn vị quan tâm, lồng ghép các chính sách, giải pháp phát triển lao động, người có công, xã hội của vùng theo chức năng nhiệm vụ được giao. Đồng thời, Bộ thường xuyên phối hợp với các tỉnh/ thành phố trong vùng triển khai các hoạt động nhằm có sự quan tâm trong địa bàn.
Có thể nói sau 15 năm thực hiện Nghị quyết 37-NQ/TW của Bộ Chính trị, nhiệm vụ trọng tâm của ngành có liên quan tới sự phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo quốc phòng, an ninh cho vùng đã được Bộ LĐTB&XH thực hiện cơ bản đã có hiệu quả. Các mục tiêu, chỉ tiêu cơ bản, đã hoàn thành và vượt so với yêu cầu đề ra góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của toàn vùng. Tạp chí Lao động và Xã hội nhìn lại những kết quả nổi bật sau 15 năm thực hiện Nghị quyết trong lĩnh vực giảm nghèo.
Huy động mọi nguồn lực cho công tác giảm nghèo
Ông Ngô Trường Thi – Vụ trưởng, Chánh Văn phòng quốc gia về giảm nghèo cho biết: Trong bối cảnh kinh tế đất nước gặp nhiều khó khăn, Chính phủ tiếp tục chỉ đạo ưu tiên cho lĩnh vực an sinh xã hội và giảm nghèo, đồng thời tiếp tục bố trí kinh phí để triển khai có hiệu quả các chính sách giảm nghèo và hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số, ưu tiên đầu tư nguồn lực cho các địa bàn nghèo. Giai đoạn từ 2005 - 2020, ngân sách Trung ương bố trí cho các tỉnh miền núi phía Bắc với tổng số kinh phí 46.692,756 tỷ đồng (chiếm 59,36% tổng kinh phí trong Chương trình). Trong đó, vốn đầu tư phát triển 34.690,298 tỷ đồng, vốn sự nghiệp 12.002,458 tỷ đồng để thực hiện các dự án thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững, góp phần giảm tỷ lệ nghèo chung của cả nước từ 1-2% theo từng giai đoạn, đạt mục tiêu của Quốc hội, Chính phủ giao.
Từ nguồn vốn vay ưu đãi, nhiều hộ dân ở vùng đã vươn lên thoát nghèoTheo chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ ngành, địa phương đã nghiêm túc tổ chức triển khai, nghiên cứu rà soát, sửa đổi, hoàn thiện hệ thống chính sách giảm nghèo; xây dựng các giải pháp cụ thể, bố trí và huy động đa dạng hóa nguồn lực, đầu tư có trọng tâm, trọng điểm cho các địa bàn nghèo, vùng đồng bào nghèo dân tộc thiểu số. Cùng với nguồn lực của chương trình và chính sách giảm nghèo, các địa phương đã huy động sức mạnh, sự tham gia vào cuộc của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội (các tập đoàn kinh tế, các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội) đã tạo nguồn lực to lớn cùng với nguồn lực của nhà nước thực hiện có hiệu quả nhiều chương trình và chính sách giảm nghèo.
Cơ chế chính sách giảm nghèo cũng đã được điều chỉnh từng bước thay đổi về quan điểm, tư duy, từ cơ chế nặng về áp đặt chuyển sang cơ chế tự chủ, phân cấp mạnh cho địa phương trên cơ sở công khai, minh bạch trong công tác xây dựng và lập kế hoạch, từ hỗ trợ trực tíếp cho hộ chuyển dần sang hỗ trợ cho cộng đồng, nhóm hộ, từ hỗ trợ cho không chuyển sang hỗ trợ có điều kiện, thu hồi, luân chuyển; tăng tỷ lệ vốn vay tín dụng ưu đãi từ Ngân hàng CSXH để hỗ trợ tạo sinh kế cho người nghèo. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên (Hội Nông dân Việt Nam, Hội phụ nữ Việt Nam, Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Cựu chiến binh Việt Nam…) đã tổ chức, tạo điều kiện cho các đoàn viên, hội viên tích cực tham gia thực hiện và giám sát có hiệu quả các nội dung Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững. Nhiều địa phương đã có những cách làm tốt, có nhiều mô hình giảm nghèo hiệu quả như Lào Cai, Hà Giang, Hòa Bình... Mô hình quân dân y kết hợp trong chăm sóc sức khỏe người dân. Mô hình kết hợp giữa kinh tế với quốc phòng do các Đoàn Kinh tế Quốc phòng thực hiện giúp người nghèo có việc làm, thu nhập ổn định, thoát nghèo.
Từ nguồn lực đầu tư của nhà nước thông qua các chính sách và chương trình giảm nghèo, người nghèo đã tiếp cận thuận tiện hơn các chính sách trợ giúp của nhà nước; đời sống của người nghèo được từng bước cải thiện, an sinh xã hội, trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Tỷ lệ nghèo các tỉnh vùng trung du miền núi phía Bắc giảm nhanh, từ 38,72% (2005) xuống còn 31,38% (2010); 25,77% (2015) và 15,82% (2018). Tỷ lệ nghèo ở các huyện nghèo giảm bình quân 5,5%/năm, các xã nghèo giảm bình quân từ 3-4%/năm. Đến hết năm 2018, toàn vùng có 7 huyện thoát nghèo và được Thủ tướng Chính phủ tặng bằng khen, 72 xã đặc biệt khó khăn vùng dân tộc thiểu số và miền núi trong khu vực đạt chuẩn nông thôn mới.
Tiếp tục thực hiện nhiều nhóm giải pháp
Tuy đã đạt được những kết quả quan trọng về giảm nghèo, nhưng đời sống của đồng bào, người nghèo khu vực trung du miền núi phía Bắc còn gặp nhiều khó khăn nhất cả nước; tỷ lệ tái nghèo và phát sinh nghèo tương đối cao. Nếu như tỷ lệ hộ tái nghèo so với số hộ thoát nghèo cả nước là 2,37% thì Hà Giang có tỷ lệ 5,86%, Sơn La tỷ lệ 8,37%, Hòa Bình tỷ lệ 7,33%; Tỷ lệ hộ nghèo phát sinh so với số hộ thoát nghèo cả nước là 17,8%, thì Hà Giang có tỷ lệ là 41,8%, Sơn La có tỷ lệ 31,73%, Cao Bằng có tỷ lệ 21,54%. Theo ông Ngô Trường Thi, để thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững trong những năm tới, nhất là xây dựng chương trình cho giai đoạn 2021-2025, cần tập trung vào các nhóm giải pháp sau:
Về xác định đối tượng hộ nghèo thụ hưởng các chính sách giảm nghèo và an sinh xã hội: Đánh giá sơ kết 3 năm chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều, đề xuất điều chỉnh, sửa đổi bổ sung một số chiều chỉ số tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản cho phù hợp, như bổ sung chỉ số việc làm, bảo hiểm xã hội để phản ánh thu nhập và an ninh cuộc sống của người dân trước những rủi ro trong cuộc sống, đồng thời cũng là cơ sở để phân loại đối tượng hộ nghèo giai đoạn tới để có các giải pháp tác động phù hợp, làm cơ sở để thực hiện nguyên tắc hỗ trợ hộ nghèo có điều kiện, có thời gian.
Về ban hành chính sách: Cần phải thực hiện triệt để nguyên tắc khi ban hành cơ chế chính sách theo hướng giảm hỗ trợ cho không, tăng chính sách cho vay có điều kiện, có hoàn trả đồng thời cần tăng nguồn lực cho hệ thống chính sách hỗ trợ sinh kế cho hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo.
Về Chương trình MTQG giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025: Cả nước hiện nay còn 56 huyện nghèo, 29 huyện hưởng cơ chế theo Nghị quyết 30a, trên 2000 xã 135, trên 20.000 thôn bản đặc biệt khó khăn, vì vậy vẫn cần phải tiếp tục thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia bền vững giai đoạn 2021-2025 nhằm thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững, hạn chế tái nghèo, tạo điều kiện cho người nghèo, hộ nghèo tiếp cận thuận lợi các dịch vụ xã hội cơ bản, thích ứng biến đối khí hậu, đến năm 2025 xóa bỏ hoàn toàn nghèo đói cho tất cả mọi người ở mọi nơi theo mục tiêu phát triển bền vững.
Lãnh đạo Văn phòng Quốc gia về giảm nghèo nhấn mạnh cần ưu tiên những giải pháp trọng tâm, trong đó phát triển kinh tế - xã hội là nền tảng quan trọng để thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững, bao gồm tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng và tạo điều kiện để người dân tiếp cận đầy đủ các dịch vụ xã hội cơ bản; phải có chính sách phù hợp để người dân ở với rừng phải sống được bằng nguồn lợi từ rừng thông qua điều chỉnh tăng mức chi trả dịch vụ môi trường rừng, mức khoán khoanh nuôi bảo vệ rừng.
Tiếp tục thực hiện có hiệu quả các chính sách giảm nghèo trên cơ sở tăng định mức, mở rộng đối tượng là giải pháp quan trọng, trực tiếp tác động đến hộ, người nghèo trong việc tiếp cận đầy đủ các dịch vụ xã hội cơ bản, theo hướng: Nhà nước bảo đảm các chính sách an sinh xã hội đối với hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo về tiếp cận dịch vụ y tế, giáo dục, bảo đảm trợ cấp cho người dân khi gặp thiên tai, dịch bệnh, trợ giúp pháp lý.
Người nghèo được hỗ trợ tối đa để phát triển sản xuấtHỗ trợ cho hộ/người nghèo, hộ/người cận nghèo, hộ/người mới thoát nghèo các chính sách giảm nghèo theo hướng có điều kiện, có thời gian, có hoàn trả về đào tạo nghề, tạo việc làm, hỗ trợ nhà ở, hỗ trợ sinh kế, vay vốn tín dụng ưu đãi... Hỗ trợ hộ nghèo có thời gian, có điều kiện, tập trung hỗ trợ đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tạo việc làm, hộ không muốn thoát nghèo kiên quyết đưa ra khỏi hộ nghèo sau thời gian từ 2-3 năm; nghiên cứu chính sách hỗ trợ hộ mới thoát nghèo về giáo dục, y tế để khuyến khích thoát nghèo bền vững.
Với các giải pháp thuộc Chương trình, cần ưu tiên nguồn lực đầu tư cho địa bàn miền núi, vùng dân tộc thiểu số cả về chính sách hỗ trợ người dân tiếp cận đầy đủ các dịch vụ xã hội cơ bản về y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch vệ sinh và thông tin và đầu tư cơ sở hạ tầng thiết yếu, nhất là đường giao thông, điện lưới để kết nối với các khu vực trung tâm, vùng động lực phát triển, nhằm tạo điều kiện phát triển toàn diện cho địa bàn miền núi, thu hẹp khoảng cách chênh lệch về đời sống so với cả nước.
Ưu tiên đào tạo nghề, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho lao động thuộc hộ nghèo, lao động người dân tộc thiểu số; tạo điều kiện cho lao động thuộc hộ nghèo, lao động người dân tộc thiểu số làm việc tại các doanh nghiệp, tham gia xuất khẩu lao động, hỗ trợ điều kiện sinh kế tạo việc làm tại chỗ gắn với chuỗi giá trị.
Cùng với đó, nghiên cứu, đề xuất chính sách khuyến khích phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ với vai trò “bà đỡ” cho người nghèo ở khu vực miền núi, vùng đồng bào dân tộc; có chính sách khuyến khích doanh nhân hỗ trợ người nghèo thông qua các hoạt động tiếp nhận lao động nghèo, đào tạo nguồn nhân lực, hỗ trợ người nghèo tham gia chuỗi giá trị, phát huy các sản phẩm đặc trưng của địa phương để thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững.
Thực hiện cơ chế hỗ trợ trọn gói về tài chính gắn với kết quả đầu ra; đẩy mạnh phân cấp, trao quyền cho địa phương không giao chi tiết, cho phép địa phương chủ động xây dựng đề án bố trí vốn thực hiện trên địa bàn; tăng cường sự tham gia của người dân trong suốt quá trình xây dựng và thực hiện Chương trình giảm nghèo./.
Hồng Minh