Việc làm
Trang chủ / Lao động / Việc làm
Bản chất các chỉ tiêu trong lĩnh vực lao động - việc làm
02:55 PM 10/10/2018
(LĐXH) - Trước một số ý kiến không có cơ cở về chỉ tiêu lao động việc làm, TS. Doãn Mậu Diệp, Thứ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội Doãn Mậu Diệp đã cuộc trao đổi với các cơ quan báo chí xung quanh vấn đề này.
TS. Doãn Mậu Diệp, Thứ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội

Chỉ tiêu lao động qua đào tạo hoàn toàn phù hợp với tiêu chuẩn của ILO

Theo Thứ trưởng Doãn Mậu Diệp, để đánh giá chất lượng nguồn nhân lực, Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) dùng hai bộ chỉ tiêu:

- Bộ chỉ tiêu thứ nhất là nằm trong bộ Các chỉ tiêu chính của thị trường lao động- Key Indicators of  Labour Market do ILO công bố hàng năm đối với khoảng 200 quốc gia và vùng lãnh thổ trên toàn thế giới. Trong bộ chỉ tiêu này, chỉ tiêu số 14 - Trình độ cao nhất đạt được và tình trạng mù chữ của lực lượng lao động. (Educational attainment and illiteracy) phân loại lao động từ không được đi học, học tiểu học, trung học cho đến thạc sĩ, tiến sĩ. Việc chỉ tính trình độ đào tạo cao nhất cho phép không tính trùng khi người lao động tham gia nhiều trình độ đào tạo khác nhau, mỗi người lao động qua đào tạo chỉ tính một lần và phản ánh chính xác số lao động đã qua đào tạo ở trường lớp.

Hạn chế của chỉ tiêu này là phải chăng chỉ có trường lớp mới làm giàu kỹ năng cho người lao động và chỉ có lao động qua trường lớp mới đại diện cho chất lượng của nguồn lao động. Những người thợ cả, có kinh nghiệm làm việc 5-10 năm phải chăng kỹ năng không bằng một cậu phó nhỏ học nghề mộc 3 tháng? Những làng nghề nổi tiếng của Việt Nam với việc truyền nghề từ thế hệ này sang thế hệ khác- thí dụ như mây tre đan Phú Vinh (Chương Mỹ, Hà Nội) lại không bằng một khóa đào tạo nghề mây tre đan được cấp chứng chỉ tổ chức trong vòng 3-5 tháng? Ở đây có hai vấn đề. Một là nhấn mạnh việc chỉ những người có bằng cấp, chứng chỉ tức là phủ nhận truyền thống đào tạo qua truyền nghề, tập nghề, đào tạo tại nơi làm việc của nhiều dân tộc trên thế giới trong đó có Việt Nam đã trải qua hàng ngàn năm lịch sử. Hai là có hơi hướng của việc sính bằng cấp.

- Bộ chỉ tiêu thứ hai là Tiêu chuẩn quốc tế về phân loại nghề nghiệp được hoàn thiện và công bố nhiều lần và lần công bố gần đây nhất là năm 2008. Bộ tiêu chuẩn này thường được biết đến như là ISCO-08 (International Standard Classification of Occupations).  Theo bộ tiêu chuẩn này, lao động được chia thành các nhóm có kỹ năng cao, kỹ năng trung bình và không có kỹ năng. Với cách phân loại này đã khắc phục được hạn chế của việc phân loại lao động chỉ căn cứ vào bằng cấp mà họ đạt được, đã thừa nhận việc đào tạo tại nơi làm việc có  vai trò quan trọng trong biến người lao động không lành nghề thành người lao động lành nghề, mà việc truyền nghề này diễn ra liên tục, phù hợp với việc xây dựng xã hội học tập, thúc đẩy học tập suốt đời. Điều này hoàn toàn phù hợp với quan điểm của UNESCO là “Giáo dục phải được tiến hành và tiếp thu bằng nhiều cách khác nhau. Điều quan trọng không phải là học theo cách nào mà là học cái gì và học được cái gì”.

Hai bộ chỉ tiêu trên bổ sung cho nhau và ILO cũng như các nước thành viên của ILO hiện nay vẫn đang sử dụng. Việc học qua trường lớp là quan trọng vì ở đó các kinh nghiệm, kỹ năng đã được đúc kết thành chương trình đào tạo, thành bài giảng giúp cho việc hiểu biết lý thuyết và nâng cấp kỹ năng được nhanh hơn.

Áp dụng các tiêu chuẩn của ILO, ở Việt Nam tỷ lệ lao động qua đào tạo chung chính là tính tiêu chuẩn quốc tế về phân loại nghề nghiệp dưới tên gọi tỷ lệ lao động có kỹ năng từ trung bình trở lên vì đã tính đến cả số lao động qua đào tạo tại nơi làm việc. Tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp chứng chỉ chính là tính theo chỉ tiêu số 14 về trình độ giáo dục cao nhất đạt được trong bộ chỉ tiêu về thị trường lao động.

Cũng theo Thứ trưởng Doãn Mậu Diệp, chỉ tiêu lao động qua đào tạo, tỷ lệ lao động có bằng cấp chứng chỉ đã được đề cập trong trong các Luật, Nghị quyết của Quốc hội, Nghị định của Chính phủ và Quyết định của Thủ tướng. Luật thống kê năm 2015 ban hành kèm theo 186 chỉ tiêu quốc gia, trong đó có chỉ tiêu “tỷ lệ lao động đã qua đào tạo” (mã số 0203). Nghị quyết số 142/2016/QH13 của Quốc hội về Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm (2016-2020) đưa ra mục tiêu: “Tỷ lệ lao động qua đào tạo năm 2020 đạt khoảng 65-70%, trong đó có bằng cấp, chứng chỉ đạt 25%”. Nghị quyết số 48/2017/QH14 của Quốc hội về kế hoạch phát triển kinh tế xã hội năm 2018 đã đưa ra 12 chỉ tiêu kinh tế- xã hội, trong đó chỉ tiêu số 8 là “Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 58% - 60%, trong đó tỷ lệ lao động qua đào tạo từ 03 tháng trở lên có chứng chỉ công nhận kết quả đào tạo đạt 23% - 23,5%”.

Theo đó, Nghị định số 97/2016/NĐ-CP ngày 07/1/2016 của Chính phủ hướng dẫn Luật Thống kê đã quy định người lao động qua đào tạo thành 2 nhóm:

Nhóm thứ nhất là người đã được đào tạo ở một trường hay một cơ sở đào tạo chuyên môn, kỹ thuật, nghiệp vụ thuộc hệ thống giáo dục quốc dân từ 3 tháng trở lên và đã tốt nghiệp, đã được cấp bằng/chứng chỉ chứng nhận đạt một trình độ chuyên môn, kỹ thuật, nghiệp vụ nhất định. (gọi tắt là nhóm lao động qua đào tạo từ 3 tháng trở lên và có chứng chỉ/bằng cấp). Nhóm này gồm: Sơ cấp nghề, trung cấp nghề, cao đẳng nghề, trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng chuyên nghiệp, đại học và trên đại học (thạc sỹ, tiến sỹ, tiến sỹ khoa học).

Nhóm thứ hai là người chưa qua một trường lớp đào tạo nào nhưng do tự học, do được truyền nghề hoặc vừa làm vừa học nên họ đã có được kỹ năng, tay nghề, tương đương với bậc 1 của công nhân kỹ thuật có bằng/chứng chỉ cùng nghề và thực tế đã từng làm công việc này với thời gian từ 3 năm trở lên (hay còn gọi là công nhân kỹ thuật không bằng/chứng chỉ).

Nhóm thứ nhất thì theo đúng cách phân loại lực lượng lao động theo chỉ tiêu số 14 trong Bộ chỉ tiêu cơ bản của thị trường lao động (KILM) theo hướng dẫn của ILO. Nhóm thứ hai thì theo đúng hướng dẫn trong Tiêu chuẩn quốc tế về phân loại nghề nghiệp – ISCO-08 cũng của ILO.

“Việt Nam với tư cách là một thành viên của ILO nên tuân thủ những hướng dẫn của ILO. Hướng dẫn của ILO là sử dụng cả hai chỉ tiêu, bổ sung cho nhau để đánh giá đúng chất lượng nguồn nhân lực và hiện nay chúng ta đang làm như vậy. Vì vậy có thể khẳng định rằng các chỉ tiêu tính toán của Việt Nam hoàn toàn phù hợp với thông lệ quốc tế và các tiêu chuẩn của ILO”- Thứ trưởng Doãn Mậu Diệp khẳng định.

Số liệu lao động qua đào tạo lấy từ dữ liệu 21 triệu hộ gia đình

Trước những ý kiến về độ tin cậy của chỉ tiêu lao động qua đào tạo, Thứ trưởng Doãn  Mậu Diệp cho biết: Từ năm 2014, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội được Chính phủ giao nhiệm vụ thu thập, tổng hợp chỉ tiêu “Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo”, và việc này Bộ giao Cục Việc làm thực hiện, không giao Viện Khoa học Lao động và Xã hội.

Các chỉ tiêu và lao động qua đào tạo và tạo việc làm mới hàng năm của Việt Nam đều phù hợp với các tiêu chuẩn của ILO. Ảnh minh họa

Để tổng hợp tính toán chỉ tiêu này, Cục Việc làm dựa trên cơ sở Dữ liệu Cung lao động được cập nhật hằng năm do Cục Việc làm triển khai từ năm 2010 trở lại đây. Cơ sở dữ liệu cung lao động gồm có các thông tin cơ bản về nhân khẩu học, trình độ giáo dục phổ thông, trình độ chuyên môn kỹ thuật, lĩnh vực giáo dục – đào tạo, tình trạng hoạt động kinh tế của người lao động, do Ủy ban Nhân dân cấp xã triển khai thu thập, cập nhật dữ liệu hàng năm và hiện có thông tin của 21 triệu hộ gia đình. Từ cơ sở dữ liệu cung lao động cho biết được chi tiết trình độ chuyên môn kỹ thuật cao nhất mà người lao động đạt được, theo đó, tỷ lệ này qua các năm như sau: năm 2014 là 49,14%; năm 2015- 52,60%; năm 2016- 53,00%; năm 2017- 56,10% và ước tính năm 2018 là 58,60%.

Như vậy, số liệu công bố về tỷ lệ lao động qua đào tạo là hoàn toàn có cơ sở, từ dữ liệu của 21 triệu hộ gia đình  chứ không ai bịa ra số liệu này cả và không lừa thiên hạ.

Bên cạnh đó, hàng quý, Tổng cục Thống kê đều tổ chức điều tra chọn mẫu về lao động việc làm. Phiếu điều tra lao động việc làm hàng năm đã thiết kế các câu hỏi liên quan để có thể tính toán được chỉ tiêu lao động qua đào tạo có bằng cấp chứng chỉ, không có bằng cấp chứng chỉ và đã (áp dụng hệ thống tiêu chuẩn phân loại nghề nghiệp quốc tế của ILO. Đó là các câu hỏi số 14, 15, 24 và 61 trong phiếu điều tra năm 2017. Viện Khoa học Lao động và Xã hội đã tổ chức phân tích các số liệu từ điều tra này và cho thấy theo kết quả điều tra năm 2017, tỷ lệ lao động qua đào tạo 38,09%, trong đó tỷ lệ lao động qua đào tạo từ 3 tháng trở lên có bằng/chứng chỉ là 21,73%; tỷ lệ lao động là CNKT không có bằng/chứng chỉ hay có kỹ năng/chứng chỉ nghề dưới 3 tháng là 16,36%.  Mặc dù vậy, 22,24% những người hiện đang làm những công việc có kỹ năng trung bình hoặc cao hơn từ 3 năm trở lên không được tính là lao động qua đào tạo mà lẽ ra, theo quy định tại Nghị định 97, phù hợp với phân loại của ILO, họ phải được tính là lao động được đào tạo tại nơi làm việc. Nếu trừ đi 2,7% người đang làm các công việc có kỹ năng giản đơn nhưng lại có trình độ trung cấp, cao đẳng, thậm chí sau đại học.  Vì thế tỷ lệ lao động qua đào tạo của Việt nam năm 2017 thực chất phải là 57,63% và số có bằng cấp, chứng chỉ là 22,3% . Con số của Bộ Lao động-Thương bình và Xã hội báo cáo là 56,1% cho năm 2017. 

“Nếu tính theo Tiêu chuẩn quốc tế phân loại công việc theo kỹ năng từ số liệu điều tra của Tổng cục Thống kê thì khoảng 11,51% lao động Việt Nam có kỹ năng cao, khoảng 50,65% lao động có kỹ năng trung bình và hơn 36,67%% thuộc kỹ năng thấp. Nói cách khác, khoảng 63% lao động được xếp loại có kỹ năng trung bình trở lên do được đào tạo từ trường lớp hoặc được đào tạo tại nơi làm việc. Tức số liệu cập nhật từ cơ sở dữ liệu Cung lao động do Bộ Lao động _TBXH  tổ chức và số liệu điều tra lao động việc làm của Tổng cục Thống kê tiến hành là không có mâu thuẫn, tương đối đồng nhất” - Thứ trưởng Doãn Mậu Diệp nhấn mạnh.

Chỉ tiêu tạo việc làm và giải quyết việc làm  vẫn giữ vai trò quan trọng

Lý giải về vai trò của chỉ tiêu tạo việc làm và giải quyết việc làm, Thứ trưởng Doãn Mậu Diệp cho rằng đây mãi mãi là chỉ tiêu quan trọng đối với các quốc gia, chỉ có điều thiết kế chỉ tiêu như thế nào để đo đếm được và kiểm chứng được. Trên bình diện toàn cầu, Lao động quốc tế có Chương trình Nghị sự toàn cầu về việc làm (Global Employment Agenda khởi động từ năm 2000; Chương trình việc làm cho thanh niên (Youth Employment Programme) khởi động từ năm 2005; Một nghiên cứu của ILO cũng chỉ ra bao nhiêu việc làm mới được tạo ra, bao nhiêu việc làm bị mất đi ở từng lĩnh vực dưới tác động của tự động hóa, robot hóa, trí tuệ nhân tạo được áp dụng vào sản xuất đối với các nước ASEAN.

Tổng thống Mỹ Donald Trump cũng thuyết phục cử tri Mỹ về nước Mỹ trên hết, đưa việc làm về nước Mỹ và rất tự hào trong từng quý dưới nhiệm kỳ của mình đã tạo được thêm bao nhiêu việc làm. Nước Mỹ cũng có bảng đánh giá việc làm tạo ra trong 24 nhiệm kỳ Tổng thống Mỹ, từ nhiệm kỳ 1921-1925 các đời Tổng thống Mỹ của Harding/ Coolige với 4,5 triệu việc làm được tạo ra cho đến Tổng thống Barack nhiệm kỳ 2009-2013 tạo ra 1,213 triệu việc làm, nhiệm kỳ 2013-2017 tạo ra 10,288 triệu việc làm và đang theo dõi nhiệm kỳ của Tổng thống Donald Trump.  Ngay cả số việc làm tạo ra trong nhiệm kỳ thứ hai của Barack Obama cao gấp 9 lần số việc làm trong nhiệm kỳ thứ nhất mà cũng không gây cho dân Mỹ ngạc nhiên, Ở Việt Nam, chắc Barack Obama sẽ phải giải trình rất vất vả tại sao như vậy.

Trung Quốc cũng đưa ra các số liệu về việc làm mới được tạo ra. Thí dụ, Trung Quốc đã tạo ra được 65 triệu việc làm mới trong 5 năm từ 2012-đến 2017; tạo 13,51 triệu việc làm năm 2017.

“Nói thế để thấy rằng thành tựu tạo việc làm là thành tựu mà mọi nước đều quan tâm, không nên ngạc nhiên và nghi ngờ việc các nước công bố chỉ tiêu tạo việc làm mới” - Thứ trưởng cho biết.

Theo Thứ trưởng, trong lĩnh vực việc làm có ba chỉ tiêu là tổng số việc làm mới được tạo ra, tổng số việc làm mất đi, tổng số việc làm tăng thêm (bằng  số mới được tạo ra trừ số bị mất đi), nhưng định nghĩa phải rõ ràng. Đây chính là thước đo thành tựu việc làm của nền kinh tế; và được tính toán khoa học, như khảo sát doanh nghiệp, suy rộng, xây dựng mô hình/ công thức để ước tính.

Thời gian qua, Việt Nam dùng khái niệm có thể gây nhầm lẫn như số người được giải quyết việc làm và cách tính chưa thực sự khoa học và cần sửa đổi cùng với định nghĩa rõ ràng, tránh hiểu nhầm và gây nghi ngờ.

Thí dụ khi kinh tế trồi sụt, số người được giải quyết việc làm tại sao lại cao thế. Rất dễ hiểu, số người được giải quyết việc làm tăng vì sa thải nhiều, mất việc lắm, phải làm việc mới với chất lượng không cao, làm việc ở khu vực phi kết cấu thay vì làm việc ở doanh nghiệp. Kinh tế càng ổn định, hợp đồng lao động càng bền vững thì số lượng người có yêu cầu giải quyết việc làm sẽ không tăng đột biến. Tuy nhiên, số người được giải quyết việc làm là chỉ tiêu quản trị thị trường, không phải là chỉ tiêu đo thành tựu của nền kinh tế.

Thứ trưởng Doãn Mậu Diệp kết luận: “Mặc dù hiện nay chỉ tiêu số người được giải quyết việc làm không còn là chỉ tiêu quốc gia, nhưng để đo lường thành tựu việc làm của phát triển kinh tế-xã hội vẫn cần nghiên cứu hoàn thiện phương pháp tính và công bố các chỉ tiêu việc làm mới tạo ra, việc làm mất đi, việc làm tăng thêm. Chỉ tiêu số người giải quyết việc làm có lẽ nên chỉ sử dụng trong nội bộ ngành lao động để quản trị thị trường, đo lường mức biến động của thị trường lao động”.
PV
TAG:
Tin khác
TP.HCM: Người bị nhà nước thu hồi đất được hỗ trợ học nghề và giải quyết việc làm
Thứ trưởng Lê Văn Thanh: Nắm bắt công tác an toàn lao động tại Công ty Cổ phần Xây dựng Phục Hưng Holdings
Thứ trưởng Lê Văn Thanh: Khẳng định uy tín qua công tác an toàn lao động
Huyện Phú Vang: Triển khai hiệu quả công tác đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng
Kiên Giang tập trung thực hiện tốt công tác giải quyết việc làm và giáo dục nghề nghiệp
Huyện Định Hóa: Tăng cường hỗ trợ việc làm, góp phần giảm nghèo bền vững
Thành phố Thái Nguyên: Nhiều cơ hội việc làm cho người lao động tại Ngày hội việc làm năm 2024
Cà Mau: Giải quyết việc làm cho hơn 42.000 lao động trong 9 tháng đầu năm 2024
Hội thao kỹ thuật cấp cứu mỏ: Duy trì tác phong cứu hộ chuyên nghiệp và kỷ luật