Nghiên cứu - trao đổi
Trang chủ / Nghiên cứu - trao đổi / Nghiên cứu - trao đổi
Quy định của pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam - Hành lang pháp lý bảo vệ trẻ em trước tình trạng bị xâm hại
05:36 PM 11/06/2019
Trẻ em là hạnh phúc của gia đình, là tương lai của đất nước! “Mọi trẻ em đều được bảo vệ để giảm nguy cơ rơi vào hoàn cảnh đặc biệt, chú trọng bảo vệ trẻ em để không bị xâm hại; trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt được trợ giúp, chăm sóc để phục hồi, hòa nhập cộng đồng và có cơ hội phát triển.”[1] Đây là một trong những mục tiêu quan trọng, là mối quan tâm đặc biệt của Đảng, Nhà nước ta, của toàn xã hội và của mỗi gia đình.
1. Thực trạng và một số nguyên nhân tình trạng trẻ em bị xâm hại trong thời gian qua
Thời gian qua, tình trạng trẻ em bị xâm hại ngày càng diễn biến phức tạp, gia tăng về mức độ, số lượng vụ việc, như là bóc lột sức lao động của trẻ em[2], các vụ hiếp dâm[3], dâm ô trẻ em[4], bạo hành gia đình, bạo lực học đường...[5]. Những vụ việc xâm hại trẻ em liên tiếp được công khai làm rúng động dư luận và cảnh báo “đỏ” về sự an toàn của những đứa trẻ và sự xuống cấp về đạo đức, ý thức pháp luật của những người trưởng thành[6].
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng nêu trên, trước hết phải kể đến nhận thức của các gia đình, cộng đồng về vấn đề bảo vệ trẻ em chưa đầy đủ và phần nào đó còn bị xem nhẹ; nhiều thói quen, phong tục, tập quán có hại cho trẻ em chưa được các cấp, các ngành quan tâm đấu tranh loại bỏ. Việc ngược đãi, xâm hại, bạo lực, bóc lột đối với trẻ em chưa được cộng đồng chủ động phát hiện sớm và báo cho các cơ quan chức năng xử lý, can thiệp kịp thời. Nhận thức về sự nguy hại nhiều mặt và hậu quả lâu dài, nghiêm trọng của các hành vi xâm hại tình dục, bạo lực đối với trẻ em chưa được cảnh báo đúng mức, đa phần những trẻ em bị ngược đãi, xâm hại và bị bóc lột có tâm lý mặc cảm, tự ty hoặc tâm lý thù hận đối với xã hội và sau này khi trưởng thành nhiều em trong số đó cũng ứng xử tương tự đối với người khác.
Trong khi đó, vai trò bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em của gia đình, cộng đồng và của các cơ quan chức năng thuộc lĩnh vực này còn thiếu trách nhiệm, buông lỏng quản lý, chưa phát huy hết vị trí, vai trò của mình trong việc bảo vệ trẻ em[7]. Kiến thức và kỹ năng bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em của cha mẹ, người chăm sóc trẻ và của chính bản thân trẻ chưa đầy đủ dẫn đến năng lực bảo vệ trẻ em của gia đình, cộng đồng còn hạn chế. Trẻ em dễ trở thành nạn nhân của các hành vi bạo lực, xâm hại tình dục và dễ bị lôi kéo vào con đường phạm tội. Tình trạng nhiều gia đình có hoàn cảnh kinh tế khó khăn; cha mẹ ly hôn, ly thân; cha mẹ mắc các tệ nạn xã hội, vi phạm pháp luật… cũng là nguyên nhân dẫn đến việc trẻ em bỏ học, lang thang kiếm sống và bị bạo lực.
Nhận thức về bảo vệ trẻ em còn hạn chế thể hiện ở khía cạnh thiếu hiểu biết về luật pháp, về các hành vi vi phạm quyền trẻ em, dẫn đến tình trạng người thân trong gia đình xâm hại tình dục, bạo lực trẻ em (khoảng 50% tổng số vụ vi phạm) và các thành viên khác trong xã hội phạm tội nghiêm trọng đối với trẻ em đến mức phải xử lý hình sự.
Cần hành động ngay để phòng, chống bạo lực, xâm hại trẻ em. Ảnh minh họa
2. Quyền của trẻ em theo quy định của pháp luật quốc tế
Trong Bộ luật Nhân quyền quốc tế, quyền trẻ em được quy định chủ yếu trong Công ước về quyền trẻ em (CRC, năm 1989) và hai Nghị định thư không bắt buộc bổ sung CRC được thông qua năm 2000 (Nghị định thư về buôn bán trẻ em, mại dâm trẻ em và văn hóa phẩm khiêu dâm trẻ em; Nghị định thư về sự tham gia của trẻ em trong xung đột vũ trang). Trong đó khái niệm “Trẻ em” được xác định là những người dưới 18 tuổi. Tuy nhiên, đây là một điều luật mở cho các quốc gia thành viên. Theo đó, các quốc gia thành viên có thể quy định các quyền trẻ em được bắt đầu ngay khi mang thai hay sau khi ra đời; và về độ tuổi được coi là trẻ em thấp hơn 18 tuổi so với quy định của CRC.
Quyền trẻ em được quy định dưới 04 dạng, trong đó 02 dạng đầu là quyền trực tiếp; hai dạng sau, tạm gọi là quyền gián tiếp hay quyền thụ động, cụ thể:
(i) Quyền: Được sống và phát triển, có họ tên và quốc tịch,...
(ii) Tự do (hay quyền cơ bản): Tự do tiếp nhận thông tin, tư tưởng, tín ngưỡng, tôn giáo...
(iii) Trách nhiệm của cha mẹ và xã hội: Thực hiện các quyền trẻ em, có quyền và nghĩa vụ định hướng và đưa ra những chỉ dẫn phù hợp...
(iv) Bảo vệ của cha mẹ và xã hội: Trẻ em được bảo vệ khỏi sự bóc lột và lạm dụng tình dục, khỏi bị mua bán và bắt cóc, khỏi bị tra tấn và tước đoạt tự do, khỏi ảnh hưởng của xung đột vũ trang...
Nội dung quyền trẻ em trong CRC được phân thành 04 nhóm: a/ Nhóm quyền được sống hay được tồn tại (các Điều 5, 6, 24, 26, 27); b/ nhóm quyền được bảo vệ (các Điều 2, 7, 8, 9, 10, 11, 16, 19, 20, 21, 22, 23, 25, 32, 33, 34, 35, 36, 37, 38, 39, 40); c/ nhóm quyền được phát triển (các Điều 17, 18, 28, 29, 31, 32); d/ nhóm quyền được tham gia (các Điều 12, 13, 14, 15, 17, 30).
3. Quyền của trẻ em theo quy định của pháp luật Việt Nam
Cùng với việc phát triển kinh tế, trong những năm qua, Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách, văn bản pháp luật trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan đến bảo vệ các quyền trẻ em. Từ các bản Hiến pháp, các bộ luật, luật đến các văn bản dưới luật đã tạo thành một hệ thống pháp luật bảo vệ trẻ em phù hợp với các công ước quốc tế và truyền thống văn hoá của dân tộc.
Việt Nam là nước đầu tiên ở Châu Á và nước thứ hai trên thế giới phê chuẩn Công ước của Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em vào ngày 20/02/1990.
Ở Việt Nam, quyền trẻ em đã được hiến định từ Hiến pháp năm 1946 (trực tiếp là các Điều 14, 15 và được hàm chứa trong một số điều khác), và trong tất cả các Hiến pháp năm 1959, năm 1980, năm 1992 (gồm cả lần sửa đổi, bổ sung vào năm 2001), năm 2013. Trong Hiến pháp năm 1992, quyền trẻ em được chế định trực tiếp trong Điều 40 và được hàm chứa trong một số điều khác. Hiến pháp năm 2013, quyền trẻ em được quy định trực tiếp tại khoản 1, Điều 37, cụ thể: “Trẻ em được Nhà nước, gia đình và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục; được tham gia vào các vấn đề về trẻ em. Nghiêm cấm xâm hại, hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao động và những hành vi khác vi phạm quyền trẻ em”. Quyền trẻ em cũng được thể chế hóa trong nhiều bộ luật và luật, mà tập trung là Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 và Luật Trẻ em năm 2016.
Một số quyền cơ bản của trẻ em, cụ thể:
 Một là, quyền sống[8] 
Trẻ em có quyền được bảo vệ tính mạng, được bảo đảm tốt nhất các điều kiện sống và phát triển.
Hai là, quyền được khai sinh và có quốc tịch[9]
Trẻ em có quyền được khai sinh, khai tử, có họ, tên, có quốc tịch; được xác định cha, mẹ, dân tộc, giới tính theo quy định của pháp luật. Mọi hồ sơ, giấy tờ của cá nhân sau này mà có nội dung ghi về họ, tên, chữ đệm; ngày, tháng, năm sinh; giới tính; dân tộc; quốc tịch; quê quán; quan hệ cha, mẹ, con phải phù hợp với Giấy khai sinh.
Ba là, quyền được chăm sóc sức khỏe[10]
Trẻ em có quyền được chăm sóc tốt nhất về sức khỏe, được ưu tiên tiếp cận, sử dụng dịch vụ phòng bệnh và khám bệnh, chữa bệnh.
Bốn là, quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng[11]
Trẻ em có quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng, để phát triển toàn diện. Cha mẹ có nghĩa vụ và quyền thương yêu; tôn trọng ý kiến của con; chăm lo việc học tập và giáo dục để con phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ và đạo đức, trở thành người con hiếu thảo của gia đình, công dân có ích cho xã hội[12], theo đó:
- Cha mẹ có nghĩa vụ và quyền cùng nhau chăm sóc, nuôi dưỡng con chưa thành niên hoặc con đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình[13].
- Cha mẹ tạo điều kiện cho con được sống trong môi trường gia đình đầm ấm, hòa thuận; làm gương tốt cho con về mọi mặt; phối hợp chặt chẽ với nhà trường và các tổ chức xã hội trong việc giáo dục con[14].
- Cha mẹ hướng dẫn con chọn nghề; tôn trọng quyền chọn nghề, quyền tham gia hoạt động xã hội của con[15].
- Khi con gặp khó khăn không thể tự giải quyết được, cha mẹ có thể đề nghị cơ quan, tổ chức hữu quan giúp đỡ để thực hiện việc giáo dục con[16].
- Cha mẹ là người đại diện theo pháp luật của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự, trừ trường hợp con có người khác làm giám hộ hoặc có người khác đại diện theo pháp luật[17].
- Cha mẹ phải bồi thường thiệt hại do con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự gây ra theo quy định của Bộ luật Dân sự[18].
Cha mẹ không được phân biệt đối xử với con trên cơ sở giới hoặc theo tình trạng hôn nhân của cha mẹ; không được lạm dụng sức lao động của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động; không được xúi giục, ép buộc con làm việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội[19], tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà có thể bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường.
Năm là, quyền được sống chung với cha mẹ[20]
Trẻ em có quyền sống chung với cha mẹ; được cả cha và mẹ bảo vệ, chăm sóc và giáo dục, trừ trường hợp cách ly với cha, mẹ theo quy định của pháp luật hoặc vì lợi ích tốt nhất của trẻ em. Khi cách ly cha, mẹ, trẻ em được trợ giúp để duy trì mối liên hệ và tiếp xúc với cha, mẹ, gia đình, trừ trường hợp không vì lợi ích tốt nhất của trẻ em. Các trường hợp trẻ em buộc phải cách ly cha mẹ được pháp luật quy định, gồm:
- Cha và mẹ đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang phải chấp hành hình phạt tù.
- Cha mẹ bị Tòa án quyết định hạn chế quyền của cha mẹ đối với con chưa thành niên hoặc quyết định không cho cha mẹ chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.
- Trẻ em bị quyết định đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục…
Khi phải sống cách ly cha mẹ, quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng của trẻ em được bảo đảm như sau:
- Trong trường hợp, cha và mẹ đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang phải chấp hành hình phạt tù, thì trẻ em phải sống cách ly cha, mẹ và được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và các tổ chức chính trị - xã hội chăm sóc, nuôi dưỡng thay thế, trừ trẻ em dưới ba mươi sáu tháng tuổi.
- Trong trường hợp bị Tòa án quyết định hạn chế quyền của cha mẹ đối với con chưa thành niên, thì trong thời gian thi hành quyết định của Tòa án, trẻ em được giúp đỡ, bảo vệ lợi ích; Trong trường hợp xét thấy cả cha và mẹ đều không đủ điều kiện trực tiếp nuôi con, thì Tòa án quyết định giao con cho người giám hộ theo quy định của Bộ luật Dân sự[21].
- Trong các trường hợp này, Ủy ban nhân dân các cấp có trách nhiệm tổ chức việc chăm sóc, nuôi dưỡng thay thế cho trẻ em phải sống cách ly cha mẹ theo các hình thức giao cho người thân thích của trẻ em, giao cho gia đình thay thế hoặc cơ sở trợ giúp trẻ em tại địa phương để chăm sóc, nuôi dưỡng thay thế.
- Cơ quan có chức năng bảo vệ và chăm sóc trẻ em các cấp có trách nhiệm xác minh điều kiện, hoàn cảnh sống, khả năng kinh tế của người thân thích, gia đình thay thế, cơ sở trợ giúp trẻ em để đề xuất người chăm sóc, nuôi dưỡng thay thế đối với trẻ em phải sống cách ly cha mẹ; liên hệ và thực hiện quyết định của Ủy ban nhân dân cùng cấp trong việc chăm sóc, nuôi dưỡng thay thế; thường xuyên kiểm tra điều kiện sống của trẻ em phải sống cách ly cha mẹ sau khi giao cho người chăm sóc, nuôi dưỡng thay thế.
- Trong thời gian trẻ em ở trường giáo dưỡng hoặc cơ sở cai nghiện, cha mẹ, người giám hộ của trẻ em này có trách nhiệm thường xuyên thăm hỏi, động viên, giúp đỡ; trường giáo dưỡng, cơ sở cai nghiện phải tạo điều kiện để trẻ em giữ mối liên hệ với gia đình, gia đình thay thế; Ủy ban nhân dân, các cơ quan, đoàn thể nhân dân, tổ chức xã hội cấp xã, nơi có trẻ em vào trường giáo dưỡng hoặc cơ sở cai nghiện, có biện pháp cụ thể để giúp đỡ trẻ em tiến bộ và tái hòa nhập gia đình, cộng đồng khi trở về.
Sáu là, quyền được đoàn tụ, liên hệ với và tiếp xúc với cha, mẹ[22]
Trẻ em có quyền được biết cha đẻ, mẹ đẻ, trừ trường hợp ảnh hướng đến lợi ích tốt nhất của trẻ em; được duy trì mới liên hệ hoặc tiếp xúc với cả cha và mẹ khi trẻ em, cha, mẹ cư trú ở các quốc gia khác nhau hoặc khi bị giam giữ, trục xuất; được tạo điều kiện thuận lợi cho việc xuất cảnh, nhập cảnh để đoàn tụ với cha, mẹ; được bảo vệ không bị đưa ra nước ngoài trái quy định của pháp luật; được cung cấp thông tin khi cha mẹ bị mất tích.
Bẩy là, quyền được chăm sóc thay thế và nhận làm con nuôi[23]
- Trẻ em có quyền được chăm sóc, thay thế khi không còn cha mẹ; không được hoặc không thể sống cùng cha đẻ, mẹ đẻ; bị ảnh hưởng bởi thiên tai, thảm họa, xung đột vũ trang vì sự an toàn và lợi ích tốt nhất của trẻ em.
- Trẻ em được nhận làm con nuôi theo quy định của pháp luật về con nuôi.
Tám là, quyền được giáo dục, học tập và phát triển năng khiếu[24]
- Trẻ em có quyền được giáo dục, học tập, để phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng của bản thân;
- Trẻ em được bình đẳng về cơ hội học tập và giáo dục; được phát triển tài năng, năng khiếu, sáng tạo, phát minh, theo đó:
+ Phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em năm tuổi, phổ cập giáo dục tiểu học và phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Nhà nước quyết định kế hoạch phổ cập giáo dục, bảo đảm các điều kiện để thực hiện phổ cập giáo dục trong cả nước[25]. Gia đình, Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm cho trẻ em thực hiện quyền học tập; học hết chương trình giáo dục phổ cập; tạo điều kiện cho trẻ em theo học ở trình độ cao hơn.
+ Nhà trường và các cơ sở giáo dục khác có trách nhiệm thực hiện giáo dục toàn diện về đạo đức, tri thức, thẩm mỹ, thể chất, giáo dục lao động hướng nghiệp cho trẻ em; chủ động phối hợp chặt chẽ với gia đình và xã hội trong việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.
+ Cơ sở giáo dục mầm non và cơ sở giáo dục phổ thông phải có điều kiện cần thiết về đội ngũ giáo viên, cơ sở vật chất, thiết bị dạy học để bảo đảm chất lượng giáo dục.
+ Nhà nước có chính sách phát triển giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông; chính sách miễn, giảm học phí, cấp học bổng, trợ cấp xã hội để thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục.
Chín là, quyền vui chơi, giải trí[26]
Trẻ em có quyền vui chơi, giải trí; được bình đẳng về cơ hội tham gia các hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thể dục, thể thao, du lịch phù hợp với độ tuổi.
Mười là, quyền về tài sản[27]
 Trẻ em có quyền có tài sản, quyền thừa kế theo quy định của pháp luật. Tài sản riêng của trẻ em bao gồm tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng, thu nhập do lao động của trẻ em, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của trẻ em và thu nhập hợp pháp khác. Tài sản được hình thành từ tài sản riêng của trẻ em cũng là tài sản riêng của trẻ em. Cha mẹ có trách nhiệm và nghĩa vụ bảo quản lý, bảo vệ, định đoạt tài sản riêng của trẻ em[28] và đảm bảo quyền dân sự của trẻ em về tài sản.
Mười một là, quyền bí mật đời sống riêng tư[29]
- Trẻ em có quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình vì lợi ích tốt nhất của trẻ em;
- Trẻ em được pháp luật bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín, bí mật thư tín, điện thoại và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác; được bảo vệ và chống lại sự can thiệp trái pháp luật đối với thông tin riêng tư.
Mười hai là, quyền được bảo vệ để không bị xâm hại tình dục[30]
Trẻ em có quyền được bảo vệ dưới mọi hình thức để không bị xâm hại tình dục.
Mười ba là, quyền được bải vệ để không bị bóc lột sức lao động[31]
Trẻ em có quyền được bảo vệ dưới mọi hình thức để không bị bóc lột sức lao động; không phải lao động trước tuổi, quá thời gian hoặc làm công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm theo quy định của pháp luật; không bị bố trí công việc hoặc nơi làm việc có ảnh hưởng xấu đến nhân cách và sự phát triển toàn diện của trẻ em.
Mười bốn là, quyền được bảo vệ để không bị bạo lực, bỏ rơi, bỏ mặc[32]
Trẻ em có quyền được bảo vệ dưới mọi hình thức để không bị bạo lực, bỏ rơi, bỏ mặc làm tổn hại đến sự phát triển toàn diện của trẻ em.
Mười lăm là, quyền được bảo vệ để không bị mua bán, bắt cóc, đánh tráo, chiếm đoạt[33]
Trẻ em được bảo vệ dưới mọi hình thức để không bị mua bán, bắt cóc, đánh tráo, chiếm đoạt
Mười sáu là, quyền được bảo vê khỏ chất ma túy[34]
Trẻ em có quyền được bảo vệ khỏi mọi hình thức sử dụng, sản xuất, vận chuyển, mua bán, tàng chức trái phép chất ma túy.
Mười bẩy là, quyền được bảo vệ trong tố tụng và xử lý vi phạm hành chính[35]
Trẻ em có quyền được bảo vệ trong quá trình tố tụng và xử lý vi phạm hành chính; bảo đảm quyền được bào chữa và tự bào chữa, được bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp; được trợ giúp pháp lý, được trình bày ý kiến, không bị tước quyền tự do trái pháp luật; không bị tra tấn, truy bức, nhục hình, xúc phạm danh dự, nhân phẩm, xâm phạm thân thể, gây áp lực về tâm lý và các hình thức xâm hại khác.
Mười tám là, quyền được bảo vệ khi gặp thiên tai, thảm họa, ô nhiễm môi trường, xung đột vũ trang[36]
Trẻ em có quyền được ưu tiên bảo vệ, trợ giúp dưới mọi hình thức để thoát khỏi tác động của thiên tai, thảm họa, ô nhiễm môi trường, xung đột vũ trang.
Mười chính là, quyền được đảm bảo an sinh xã hội[37]
Trẻ em là công dân Việt Nam được ưu tiên bảo vệ, theo quy định của pháp luật phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội nơi trẻ em sinh sống và điều kiện của cha, mẹ hoặc người chăm sóc trẻ em.
Hai mươi là, quyền được tiếp cận thông tin và tham gia hoạt động xã hội[38]
Trẻ em có quyền được tiếp cận thông tin đầy đủ, kịp thời, phù hợp; có quyền tìm kiếm, thu nhận các thông tin dưới mọi hình thức theo quy định của pháp luật và được tham gia hoạt động xã hội phù hợp với độ tuổi, mức độ trưởng thành, nhu cầu, năng lực của trẻ em.
Hai mốt là, quyền được bày tỏ ý kiến và hội họp[39]
Trẻ em có quyền được bày tỏ ý kiến, nguyện vọng về các vấn đề liên quan đến trẻ em; được tự do hội họp theo quy định của pháp luật phù hợp với độ tuổi, mức độ trưởng thành và sự phát triển của trẻ em; được cơ quan, tổ chức, cơ sở giáo dục, gia đình, cá nhân lắng nghe, tiếp thu, phản hồi ý kiến, nguyện vọng chính đáng.
Hai hai là, quyền của trẻ em khuyết tật[40]
Trẻ em khuyết tật được hưởng đầy đủ các quyền của trẻ em và quyền của người khuyết tật theo quy định của pháp luật; được hỗi trợ, chăm sóc, giáo dục đặc biệt để phục hồi chức năng, phát triển khả năng tự lực và hòa nhập xã hội.
Hai ba là, quyền của trẻ em không quốc tịch[41]
Trẻ em không quốc tịch cư trú tại Việt Nam, trẻ em lánh nạn, tị nan được bảo vệ và hỗ trợ nhân đạo, được tìm kiếm cha, mẹ, gia đình theo quy định của pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
Bên cạnh các quy định về quyền trẻ em, pháp luật Việt Nam, cụ thể là Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) còn dành các điều luật và quy định khung hình phạt đối với các hành vi bạo lực, xâm hại và phạm tội với trẻ em như sau: Điểm b khoản 2 Điều 127 Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ; điểm b khoản 2 Điều 130 Tội bức tử; điểm đ khoản 2 Điều 133. Tội đe dọa giết người; điểm e Điều 134. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác; điểm c Điều 137. Tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong khi thi hành công vụ; Điều 142. Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi; Điều 144. Tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi; Điều 145. Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi; Điều 146. Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi; Điều 147. Tội sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm; Điều; 148; Điều 186. Tội từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng…  Khung hình phạt đối với các tội này rất nghiêm khắc.
4. Một số giải pháp phòng ngừa tình trạng trẻ em bị xâm hại
Thứ nhất, triển khai thực hiện nghiêm các quy định của Hiến pháp năm 2013, Luật Trẻ em năm 2016, Luật Hôn nhân và gia đình… và các văn bản hướng dẫn thực hiện; ưu tiên bố trí nguồn lực để bảo đảm việc hỗ trợ, can thiệp cho trẻ em khi bị xâm hại. Tăng cường giáo dục kiến thức, kỹ năng bảo vệ trẻ em, đặc biệt về phòng ngừa xâm hại tình dục và bạo lực đối với trẻ em cho cha mẹ, giáo viên, người chăm sóc trẻ, người trực tiếp làm việc với trẻ em và kiến thức, kỹ năng tự bảo vệ mình trước các nguy cơ bị xâm hại cho trẻ em.
Thứ hai, các bộ, ban, ngành, địa phương… cần nghiêm túc thực hiện Chỉ thị số 18/CT-TTg ngày 16/5/2017 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường giải pháp phòng, chống bạo lực, xâm hại trẻ em. Bộ Công an, Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao rà soát hồ sơ, vụ việc bạo lực, xâm hại trẻ em để xử lý dứt điểm, không để tồn đọng, kéo dài; tiếp nhận, giải quyết kịp thời, xử lý nghiêm các vụ việc bạo lực, xâm hại trẻ em; kiên quyết xử lý nghiêm các tổ chức, cá nhân có hành vi bao che, chậm trễ, cố tình kéo dài hoặc không xử lý vụ việc bạo lực, xâm hại trẻ em.
Thứ ba, Quốc hội, các bộ, ngành, địa phương thường xuyên kiểm tra, thanh tra, giám sát[42], đánh giá việc thực hiện quy định của pháp luật về bảo vệ trẻ em và Chỉ thị số 18 của Thủ tướng Chính phủ[43].
Thứ tư, thực hiện có hiệu quả Dự án Phát triển hệ thống bảo vệ trẻ em trong Quyết định số 565/QĐ-TTg ngày 25/4/2017 về phê duyệt Chương trình mục tiêu Phát triển hệ thống trợ giúp xã hội giai đoạn 2016 - 2020, bảo đảm nguồn lực Nhà nước cả tài chính và nhân lực cho việc hỗ trợ, can thiệp các trường hợp trẻ em có nguy cơ cao hoặc bị bạo lực, xâm hại và xâm hại tình dục, bảo đảm cho nạn nhân được tiếp cận các dịch vụ phục hồi, hòa nhập.
Thứ  năm, rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật về bảo vệ trẻ em, phòng ngừa và đấu tranh với tội phạm bạo lực, xâm hại/xâm hại tình dục trẻ em. Trước hết là các quy định về giám định pháp y trong pháp luật về giám định tư pháp để bảo đảm các vụ việc bạo lực, xâm hại tình dục trẻ em được điều tra nhanh chóng, thu thập kịp thời, đầy đủ bằng chứng; tăng quyền yêu cầu giám định cho cha, mẹ, người giám hộ của trẻ em; có sự phối hợp giữa công tác xã hội hỗ trợ nạn nhân với thu thập, cung cấp chứng cứ xâm hại trẻ em cho quá trình tư pháp. Sửa đổi, bổ sung pháp luật về tố tụng hình sự để bảo đảm việc điều tra, xét xử vụ việc bạo lực, xâm hại, xâm hại tình dục trẻ em không có nguy cơ gây tổn hại cho trẻ em là nạn nhân. Sửa đổi, bổ sung pháp luật xử lý vi phạm hành chính để tăng mức xử phạt hành chính hành vi bạo lực đối với trẻ em. Quy định chế tài xử lý việc phản ánh vụ việc bạo lực, xâm hại, xâm hại tình dục trẻ em trên các phương tiện thông tin đại chúng vi phạm quyền bí mật đời sống riêng tư của trẻ em.
Thứ sáu, triển khai nhiều biện pháp, nhiều kênh truyền thông, giáo dục cha, mẹ, người chăm sóc trẻ em và chính trẻ em kiến thức, kỹ năng phòng ngừa, thông báo, tố cáo và cùng giải quyết các vụ việc bạo lực, xâm hại, xâm hại tình dục trẻ em; cập nhật kiến thức, kỹ năng phòng, chống xâm hại trẻ em, đặc biệt phòng chống xâm hại tình dục trẻ em trên môi trường mạng[44]./.
Vũ Hải Việt
 
[1] Điều 1 Quyết định số 2361/QĐ-TTg ngày 22/12/2015 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình bảo vệ trẻ em giai đoạn 2016 - 2020.
https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Giao-duc/Quyet-dinh-2361-QD-TTg-duyet-chuong-trinh-bao-ve-tre-em-2015-298996.as100%
[2] Dự báo tình trạng trẻ em bị bạo lực, xâm hại.
http://www.laodongxahoi.net/du-bao-tinh-trang-tre-em-bi-bao-luc-xam-hai-1309147.html
[3] Thầy giáo dâm ô 3 học sinh tiểu học “bóc lịch” hết đời.

https://vietnamnet.vn/vn/phap-luat/ho-so-vu-an/thay-giao-dam-o-3-hoc-sinh-tieu-hoc-boc-lich-het-doi-520541.html

[4] Nguyễn Hữu Linh bị khởi tố vì dâm ô bé gái trong thang máy.
Khởi tố đối tượng dâm ô bé gái ở quận Thanh Xuân, Hà Nội.
https://thethaovanhoa.vn/xa-hoi/khoi-to-doi-tuong-dam-o-be-gai-o-quan-thanh-xuan-ha-noi-n20190421185535635.htm

https://vnexpress.net/phap-luat/nguyen-huu-linh-bi-khoi-to-vi-dam-o-be-gai-trong-thang-may-3905219.html

[5] Xem bài: Liên tiếp những vụ xâm phạm thân thể trẻ em.
https://vietnamnet.vn/vn/giao-duc/lien-tiep-nhung-vu-xam-pham-than-the-tre-em-52083.html
[6] Xem bài: 4 vụ dâm ô trẻ em gây rúng động cả nước.
https://vietnamnet.vn/vn/doi-song/me-va-be/4-vu-dam-o-tre-em-gay-rung-dong-ca-nuoc-518113.html
[7] Xem bài: 22 cơ quan phụ trách vấn đề trẻ em mà vẫn rộ lên nạn xâm hại trẻ!
https://dantri.com.vn/xa-hoi/22-co-quan-phu-trach-van-de-tre-em-ma-van-ro-len-nan-xam-hai-tre-20190426072156623.htm
[8] Điều 12 Luật Trẻ em năm 2016.
[9] Điều 13 Luật Trẻ em năm 2016.
[10] Điều 14 Luật Trẻ em năm 2016.
[11] Điều 15 Luật Trẻ em năm 2016.
[12] Khoản 1 Điều 69 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
[13] Khoản 2 Điều 69, khoản 3 Điều 70 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
[14] Khoản 1 Điều 72 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
[15] Khoản 2 Điều 72 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
[16] Khoản 3 Điều 72 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
[17] Khoản 1 Điều 73 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014
[18] Điều 74 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014
[19] Khoản 4 Điều 69 Luật Hôn nhân và gia đình 2014
[20] Điều 22 Luật Trẻ em năm 2016.
[21] Khoản 4 Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014
[22] Điều 23 Luật Trẻ em năm 2016.
[23] Điều 24 Luật Trẻ em năm 2016.
[24] Điều 16 Luật Trẻ em năm 2016; khoản 1 Điều 70 và Điều 72 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
[25] Khoản 1 Điều 11 Luật Giáo dục số 44/2009/QH12 sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Giáo dục số 38/2005/QH11 năm 2005.