Theo kết quả khảo sát, phần lớn những trẻ nói các em từng bị bóc lột, xâm hại tình dục trên mạng đã không tiết lộ với ai hoặc chỉ kể với một người bạn. Rất ít trẻ cho biết các em đã kể với người chăm sóc và/hoặc một kênh chính thức, như Công an hoặc đường dây trợ giúp. Nhiều khả năng là do trẻ có thể ngại nói cởi mở về chủ đề khá nhạy cảm này. Tuy nhiên, báo cáo cho thấy, trẻ em có nguy cơ bị bóc lột, xâm hại tình dục qua mạng ở Việt Nam. 23% trẻ độ tuổi 12-17 sử dụng Internet tham gia khảo sát cho biết các em đã vô tình nhìn thấy hình ảnh hoặc video nhạy cảm trên mạng trong năm qua (12 tháng trước cuộc khảo sát). 5% từng nhận được hình ảnh nhạy cảm không mong muốn.
Việc thiếu báo cáo về tình trạng bóc lột, xâm hại tình dục qua mạng ở Việt Nam bị ảnh hưởng do sự kỳ thị, thái độ không khuyến khích thảo luận về tình dục, đặc biệt là với trẻ em. Sự kỳ thị từ cộng đồng cũng có thể ảnh hưởng đến những trẻ tiết lộ về việc bị xâm hại và/hoặc khuyến khích nạn nhân không kể lại/trình báo.
"Nghiên cứu ngăn chặn hành vi gây tổn hại tại Việt Nam" phát hiện ra nhiều trẻ thiếu thông tin, nhận thức, kiến thức về bóc lột, xâm hại tình dục trẻ em qua mạng. Điều này càng làm tăng tình trạng dễ bị tổn thương của các em. Các nền tảng truyền thông xã hội, Internet ở Việt Nam đang bị lạm dụng để nhắm vào những trẻ dễ bị tổn thương.
Theo báo cáo, các nền tảng mạng xã hội đã được dùng để xác định, kết nối, tạo dựng lòng tin với nạn nhân tương lai. Các tìm kiếm ở cấp độ cơ bản nhất liên quan đến xâm hại tình dục trẻ em diễn ra phổ biến trong giai đoạn báo cáo, gồm cả các tìm kiếm bằng tiếng Anh về nội dung mô tả hoạt động tình dục với và giữa thanh thiếu niên; với trẻ em và với trẻ sơ sinh.
Báo cáo cũng cho thấy trẻ em đã chịu nhiều hình thức bóc lột, xâm hại tình dục qua mạng, như: 8% trẻ em độ tuổi 12-17 sử dụng Internet từng nhận được bình luận khiếm nhã khiến các em không thoải mái trong năm qua (12 tháng trước khảo sát); 43% không nói với ai rằng việc này đã xảy ra, chủ yếu vì trẻ cho rằng sẽ chẳng giải quyết được việc gì/chẳng làm được gì nếu các em kể lại vụ việc đó; 5% trẻ từng nhận được hình ảnh nhạy cảm không mong muốn. Gần một nửa trong số này đã không kể với ai vì không biết phải kể với ai…
Bà Nguyễn Thị Nga, Phó Cục trưởng Cục Trẻ em (Bộ Lao động - TBXH) đánh giá, bóc lột và xâm hại tình dục trẻ em trực tuyến là một hiểm họa không biên giới. Việc thu thập bằng chứng rõ rang, xây dựng cơ sở dữ liệu có chất lượng cần được coi là nhân tố trung tâm trong việc hoạch định chiến lược để giải quyết nguy cơ cho trẻ em. “Đối với những khuyến nghị từ báo cáo này, các bộ, ngành, đơn vị có liên quan sẽ có những nỗ lực, xây dựng kế hoạch, giải pháp cụ thể và cùng hợp tác để giải quyết các mối đe dọa với trẻ em, đặc biệt là vai trò của Mạng lưới ứng cứu và bảo vệ trẻ em trên môi trường mạng”, bà Nga nhấn mạnh.
Các nhà nghiên cứu tham gia dự án "Nghiên cứu ngăn chặn hành vi gây tổn hại tại Việt Nam" cho rằng những phát hiện này chỉ là một bức tranh nhanh cho thấy hiện trạng bóc lột, xâm hại tình dục trẻ em qua mạng ở Việt Nam. Do vậy, vấn đề này cần được ưu tiên.
Ngoài ra, các nhà nghiên cứu đề nghị cần tăng cường nguồn lực chuyên môn để quản lý các vụ việc. Hiện tại, số lượng cán bộ và trang thiết bị hiện có có thể không đủ để tiến hành điều tra các vụ bóc lột, xâm hại tình dục trẻ em qua mạng, vấn đề này phải được giải quyết. Phòng ngừa là chìa khóa để giải quyết bóc lột, xâm hại tình dục trực tuyến ở Việt Nam./.
Đăng Doanh