Nghiên cứu - trao đổi
Trang chủ / Nghiên cứu - trao đổi / Nghiên cứu - trao đổi
Chất lượng nguồn nhân lực yếu tố quyết định sự phát triển bền vững
10:50 AM 02/12/2022
(LĐXH) - Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã chỉ rõ: “…Phải coi chất lượng nguồn nhân lực làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững; là điều kiện để rút ngắn khoảng cách tụt hậu, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế…”. Đây cũng là mục tiêu mà hệ thống giáo dục nghề nghiệp (GDNN) hướng đến trước yêu cầu mới của sự phát triển của khoa học công nghệ…
Phát triển nhân lực có kỹ năng nghề nhận được sự quan tâm hàng đầu của các quốc gia
Những tín hiệu lạc quan…
Thời gian qua, các cơ quan Đảng và Nhà nước đã chỉ đạo xây dựng và trình ban hành nhiều chính sách và các quy định về GDNN, thể chế hóa mạnh mẽ chủ trương đổi mới, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, giải quyết nhiều bất cập, tạo nên một diện mạo mới của hệ thống GDNN. Quy mô tuyển sinh, chất lượng và hiệu quả đào tạo được tăng cường. Chỉ tính 10 năm trở lại đây, lực lượng lao động cả nước tăng từ 50,4 triệu người lên 56,2 triệu người, tỷ lệ lao động qua đào tạo từ 40% năm 2010 tăng lên trên 65% năm 2021...
Tính đến thời điểm này trên cả nước đã xuất hiện ngày càng nhiều mô hình đào tạo chất lượng cao, đào tạo gắn với nhu cầu của doanh nghiệp. Tỷ lệ học sinh, sinh viên tốt nghiệp trình độ cao đẳng, trung cấp có việc làm ngay sau khi tốt nghiệp đạt 85%, những trường có uy tín về chất lượng đào tạo nghề, có quan hệ tốt với doanh nghiệp thì tỷ lệ có việc làm là 100%. Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) năm 2020 công bố Chất lượng đào tạo nghề của Việt Nam tăng 13 bậc so với năm 2018, góp phần tăng 10 bậc năng lực cạnh tranh quốc gia… Tiếp đó,  trên cơ sở tham mưu của Bộ trưởng Bộ Lao động – thương binh và Xã hội, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 24 về đẩy mạnh phát triển nhân lực có kỹ năng nghề, góp phần nâng cao năng suất lao động và tăng năng lực cạnh tranh quốc gia trong tình hình mới.
Những kết quả đạt được trong lĩnh vực giáo dục đào tạo nói chung và GDNN nói riêng đã góp phần thực hiện các mục tiêu chung của cả nước và mục tiêu nhiệm vụ của ngành, góp phần quan trọng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Kinh nghiệm thành công của nhiều quốc gia phát triển cho thấy, nhân lực có kỹ năng, nhất là những người có tay nghề cao có vai trò đặc biệt quan trọng, góp phần tạo ra năng suất lao động vượt trội, thúc đẩy tăng trưởng GDP và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.
Việc Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội trình Chính Phủ phê duyện và quyết định lấy ngày 4/10 hàng năm là ngày kỹ năng lao động Việt Nam nhằm tôn vinh và khẳng định vị thế, tầm quan trọng của người lao động có kỹ năng. nhất là người lao động có tay nghề cao, kêu gọi cộng đồng hưởng ứng và ủng hộ phát triển kỹ năng lao động bằng các hành động cụ thể. Đặc biệt, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội cũng đã phối hợp với Ban Tuyên giáo Trung ương tổ chức quán triệt, triển khai, kiểm tra, giám sát những nội dung chuyên sâu về phát triển GDNN trong các nghị quyết, chỉ thị của Đảng. Theo đó, đổi mới căn bản, toàn diện hệ thống GDNN theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa, hội nhập quốc tế. Tập trung đổi mới chương trình, nội dung theo hướng phát triển toàn diện năng lực, thể chất, nhân cách, đạo đức, lối sống, ý thức tôn trọng pháp luật và trách nhiệm công dân.
Thực tế cho thấy, càng nhiều lao động có kỹ năng, thì hiệu quả càng cao, thu hút được nhiều nhà đầu tư; doanh nghiệp dễ giới thiệu và áp dụng các công nghệ tăng năng suất lao động và có cách làm mới. Những thống kê chỉ ra rằng những quốc gia thịnh vượng, có năng suất lao động cao thì đồng thời có lực lượng lao động kỹ năng nghề cao. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng, sự dịch chuyển lao động trên toàn cầu và cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ thì phát triển nhân lực có kỹ năng nghề nhận được sự quan tâm hàng đầu của các quốc gia. Thậm chí, lao động có kỹ năng được coi như đơn vị tiền tệ mới trong thị trường lao động toàn cầu.
Những hạn chế và một số giải pháp
Mặc dù chúng ta đã đạt được một số thành quả quan trọng về công tác đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Tuy nhiên, phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ. Cụ thể như: Ở bình diện quốc gia, mới đưa ra chiến lược, quy hoạch phát triển nhân lực Việt Nam nói chung, chưa có chiến lược, quy hoạch phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao; tỷ lệ lao động chưa qua đào tạo còn lớn, chất lượng đào tạo thấp, cơ cấu ngành nghề chưa hợp lý, thiếu lao động có trình độ, năng lực, kỹ năng tay nghề cao, thừa lao động thủ công, không qua đào tạo.
Công tác xây dựng đội ngũ, đào tạo bồi dưỡng và sử dụng cán bộ lãnh đạo, quản lý có phẩm chất và bản lĩnh, có trình độ năng lực và chất lượng còn nhiều bất cập; thiếu đội ngũ chuyên gia trong các ngành kinh tế, kỹ thuật và công nhân lành nghề. Sự kém phát triển, thiếu hụt nguồn nhân lực có chất lượng cao đang trở thành trở ngại lớn cho tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế. Đặc biệt ở khía cạnh của sự tác động của khoa học công nghề, nhất là cuộc cách mạng cộng nghiệp 4.0, theo số liệu của Tổ chức Lao động Quốc tế tại Việt Nam (ILO) thì, mặc dù sự phát triển của công nghệ số khiến 6 triệu việc làm mất đi, nhưng thay vào đó có thêm 24 triệu việc làm mới, trong đó khoảng 18 triệu việc làm trong nền kinh tế xanh, nếu có sự quan tâm đúng mức, thì có thể tạo ra 269 triệu việc làm mới vào năm 2030…
Để có thể khắc phục những tồn tại, hạn chế trên, hướng tới mục tiêu thực hiện có hiệu quả Chiến lược Phát triển GDNN giai đoạn 2021 – 2030 và tầm nhìn đến năm 2045 với các nội dung đặt ra là phát triển nhanh giáo dục nghề nghiệp nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của thị trường lao động, yêu cầu ngày càng cao về số lượng, cơ cấu, chất lượng nhân lực có kỹ năng nghề cho phát triển đất nước trong từng giai đoạn, nhất là trong bối cảnh thế giới và khu vực đang thay đổi rất nhanh, phức tạp, khó lường với không ít yếu tố bất định… Do vậy, cần có một hệ thống giải pháp đồng bộ, toàn diện hơn trong thời gian tới, trong đó tập trung vào một số giải pháp quan trọng đòi hỏi các cấp, các ngành, địa phương và mỗi người dân phải nỗ lực, tập trung tâm lực, trí lực, vật lực…, cụ thể là:
- Chú trọng gắn kết 3 khâu: đào tạo, sử dụng, đãi ngộ. Việc đào tạo phải dựa trên xu hướng, nhu cầu phát triển của nền kinh tế, đúng địa chỉ sử dụng; tiếp cận cách làm hay của thế giới. Việc thu hút người tài cần trở thành ưu tiên hàng đầu. Có chính sách phù hợp về cơ chế lương, thưởng đặc biệt đối với nhân tài, nghiên cứu thành lập và sử dụng có hiệu quả “Quỹ nhân tài” để khuyến khích sự phát triển, cống hiến, sáng tạo, gắn bó, đồng hành cùng sự phát triển kinh tế - xã hội.
- Tập trung đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo có trình độ kỹ năng nghề thành thạo, các nhà trường phải trang thiết bị dạy nghề, đào tạo nghề hiện đại phục vụ rèn luyện tay nghề cho học sinh, sinh viên trong các nhà trường cao đẳng. Hoàn thiện các chuẩn và chuẩn hóa nhà giáo, chú trọng kinh nghiệm thực tiễn và năng lực nghề nghiệp trong kỷ nguyên số, phương pháp dạy học hiện đại, tích hợp các kỹ năng cốt lõi mà thế kỷ 21 đòi hỏi cùng kỹ năng mềm, kỹ năng số, thích ứng với cuộc cách mạng công nghiệp. Xây dựng và triển khai cơ chế định kỳ thường xuyên đào tạo, bồi dưỡng năng lực chuyên môn, năng lực sư phạm cho nhà giáo. 
- Đổi mới, nâng cao chất lượng, đa dạng hoá các chương trình, phương thức tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cho nhà giáo giáo dục nghề nghiệp đối với nhà giáo giảng dạy ngành, nghề trọng điểm cấp độ ASEAN, quốc tế. Tổ chức, sắp xếp hệ thống cơ sở đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo giáo dục nghề nghiệp theo hướng phân bổ hợp lý theo vùng, miền, đáp ứng nhu cầu phát triển đội ngũ nhà giáo. Thực hiện công nhận kỹ năng, trình độ đối với người có chuyên môn, nghiệp vụ ở ngành nghề khác chuyển sang làm giáo viên, giảng viên trong các trường cao đẳng. Phát triển mạnh đội ngũ nghệ nhân, chuyên gia, người dạy nghề đủ năng lực tham gia đào tạo trình độ cao đẳng. Triển khai hiệu quả các cộng đồng, mạng lưới kết nối đội ngũ nhà giáo, nghệ nhân, chuyên gia và người dạy nghề... 
- Chuẩn hóa đội ngũ cán bộ quản lý các cơ sở đào tạo theo hướng chú trọng kỹ năng quản lý - quản trị hiện đại, đổi mới sáng tạo, kỹ năng số, trình độ ngoại ngữ. Phát triển nhanh và nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ làm công tác kiểm định, bảo đảm chất lượng, đội ngũ thanh tra, cộng tác viên thanh tra chuyên ngành. Định kỳ, thường xuyên đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực đội ngũ này.
Tóm lại, trong chiến lược phát triển nguồn nhân lực, đòi hỏi phải đổi mới trên nhiều phương diện, phải có một môi trường trọng công bằng, kỷ cương, đạo đức, thượng tôn pháp luật được coi làm chuẩn mực; tạo ra một môi trường văn hóa dẫn dắt sự phát triển nguồn nhân lực. Tương lai việc làm phụ thuộc vào chính chúng ta, những hành động hôm nay sẽ định hình tương lai. Cuộc cách mạng 4.0 tạo ra nhiều thách thức, nhưng cũng mở ra nhiều cơ hội. Do đó, phát triển kỹ năng trong quá trình làm việc không phải là nhiệm vụ của riêng bên nào mà là của toàn nhân loại, đặc biệt là lĩnh vực Giáo dục nghề nghiệp./.
Nguyễn Hữu Bắc
 
TAG: Chất lượng nguồn nhân lực yếu tố quyết định sự phát triển bền vững
Tin khác
Xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của Việt Nam sang EU trong bối cảnh thực thi EVFTA: Cơ hội và thách thức
Giải pháp phát triển và mở rộng thị trường lao động ngoài nước
Nhìn lại 40 năm thực hiện chính sách xã hội - Định hướng giải pháp góp phần phát triển toàn diện đất nước trong giai đoạn mới
Phát triển thị trường lao động linh hoạt, hiệu quả, bền vững trong bối cảnh mới
Khuynh hướng nghiên cứu chiến lược quản trị nhân sự và kinh doanh của các công ty đa quốc gia
Khuynh hướng nghiên cứu về quản trị nguồn nhân lực xanh trong tương lai
Khuynh hướng nghiên cứu về tiếng nói của nhân viên, sự đa dạng và hòa nhập trong tương lai
Khuynh hướng nghiên cứu về sức khỏe thể chất, tinh thần và khả năng phục hồi của nhân viên trong tương lai
Một số vấn đề giáo dục hướng nghiệp người lớn