Hỏi – Đáp về Chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội
(LĐXH)- Để giúp quý độc giả tìm hiểu thêm những thông tin cơ bản của chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội, Tạp chí Lao động và Xã hội phối hợp với Sở Lao động – Thương binh và Xã hội Hà Nội thông tin, giải đáp những thắc mắc về các quy định trong chính sách, trình tự thực hiện về bảo hiểm xã hội, tiền lương cụ thể như sau:
Hỏi: Công ty bà Trần Minh Tú (Hà Nội) có một số lao động người nước ngoài thuộc diện di chuyển trong nội bộ tập đoàn sang làm việc và đã được cấp giấy phép lao động.
Tập đoàn yêu cầu công ty bà tự trả lương cho số lao động này và tham gia bảo hiểm cho họ. Công ty bà Tú đã ký hợp đồng lao động 1 năm, chấm công và trả lương tại công ty, nộp BHXH, BHYT để những lao động nước ngoài nêu trên có thể sử dụng thẻ BHYT tại Việt Nam.
Bà Tú hỏi, công ty bà đóng bảo hiểm cho lao động nước ngoài tại Việt Nam như vậy có đúng không?
Trần Minh Tú (Đông Anh, Hà Nội)
Trả lời:
Căn cứ quy định tại Điểm a Khoản 2 Điều 2 Nghị định số 143/2018/NĐ-CP ngày 15/10/2018 của Chính phủ quy định chi tiết Luật BHXH và Luật An toàn, vệ sinh lao động về BHXH bắt buộc đối với người lao động là công dân nước ngoài làm việc tại Việt Nam và Khoản 1 Điều 3 Nghị định số 11/2016/NĐ-CP ngày 3/2/2016 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Bộ luật Lao động về lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam, người lao động nước ngoài di chuyển trong nội bộ doanh nghiệp là nhà quản lý, giám đốc điều hành, chuyên gia và lao động kỹ thuật của một doanh nghiệp nước ngoài đã thành lập hiện diện thương mại trên lãnh thổ Việt Nam, di chuyển tạm thời trong nội bộ doanh nghiệp sang hiện diện thương mại trên lãnh thổ Việt Nam và đã được doanh nghiệp nước ngoài tuyển dụng trước đó ít nhất 12 tháng thì không thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc.
Đề nghị bà Tú đối chiếu quy định nêu trên để biết và thực hiện chính sách BHXH đối với người lao động là công dân nước ngoài làm việc tại Việt Nam theo đúng quy định.
Hỏi: Tôi ký hợp đồng lao động từ tháng 3/2019, đến tháng 10/2019 công ty làm thủ tục đóng BHXH. Tuy nhiên, do khó khăn, đến nay công ty vẫn nợ tiền BHXH, chưa đóng tháng nào.
Tôi xin hỏi, tôi đã được cấp thẻ BHYT nhưng công ty chưa đóng tiền thì năm 2020 thẻ BHYT của bà có được gia hạn và có giá trị sử dụng không? Tôi đã làm thủ tục truy thu BHXH từ tháng 3/2019 thì có được cộng thêm vào sổ BHXH không?
Bà Võ Kim Hằng (Gia Lâm, Hà Nội)
Trả lời:
Căn cứ Khoản 9 Điều 13 Nghị định số 146/2018/NĐ-CP ngày 17/10/2018 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn biện pháp thi hành một số điều của Luật BHYT, giá trị sử dụng của thẻ BHYT tương ứng số tiền đóng BHYT theo quy định. Như vậy công ty chưa đóng tiền thì thẻ BHYT của bà chưa được gia hạn giá trị sử dụng.
Căn cứ quy định tại Điều 2, Khoản 5 Điều 3, Khoản 1, 2, 3 Điều 17, Khoản 2 Điều 21 Luật BHXH năm 2014, Khoản 3 Điều 49 Luật BHYT sửa đổi, bổ sung năm 2014; cơ quan, tổ chức, người sử dụng lao động có trách nhiệm đóng BHYT mà không đóng hoặc đóng không đầy đủ theo quy định của pháp luật thì phải đóng đủ số tiền chưa đóng và nộp số tiền lãi bằng hai lần mức lãi suất liên ngân hàng tính trên số tiền, thời gian chậm đóng và phải hoàn trả toàn bộ chi phí cho người lao động trong phạm vi quyền lợi, mức hưởng BHYT mà người lao động đã chi trả trong thời gian chưa có thẻ BHYT.
Thời gian đóng BHXH là thời gian được tính từ khi bắt đầu đóng BHXH cho đến khi dừng đóng. Trường hợp đóng BHXH không liên tục thì thời gian đóng BHXH là tổng thời gian đã đóng BHXH.
Đối chiếu các quy định nêu trên, trường hợp công ty nơi bà làm việc chưa đóng đủ số tiền chậm đóng (nợ) BHXH từ tháng 3/2019 đến tháng 10/2019 thì bà đề nghị đơn vị nơi bà làm việc đóng BHXH cho thời gian chưa đóng, chậm đóng.
Hỏi: Công ty của tôi có người lao động 62 tuổi, đã đóng BHXH 26 năm, đóng bảo hiểm thất nghiệp liên tục từ 2009 đến nay.
Khi công ty làm thủ tục chấm dứt hợp đồng lao động, người lao có nguyện vọng đăng ký hưởng trợ cấp thất nghiệp sau đó tự làm thủ tục hưởng lương hưu có được không? Công ty ra quyết định thôi việc hay quyết định nghỉ hưu?
Lại Xuân Anh (Đông Anh, Nội)
Trả lời: Theo điểm 1 Điều 49 Luật Việc làm, người lao động đang đóng bảo hiểm thất nghiệp được hưởng trợ cấp thất nghiệp khi chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc, trừ các trường hợp: Người lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc trái pháp luật; Hưởng lương hưu, trợ cấp mất sức lao động hằng tháng.
Trường hợp này nếu người lao động chấm dứt hợp đồng lao động/ hợp đồng làm việc và chưa hưởng lương hưu thì đủ điều kiện hưởng trợ cấp thất nghiệp, sau đó người lao động tự làm thủ tục hưởng lương hưu./.
Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Hà Nội
TAG: