Cơ hội cho ngành thủ công mỹ nghệ trước các hiệp định FTA thế hệ mới
(LĐXH) - Trong những năm gần đây, Việt Nam đẩy mạnh mở cửa, hội nhập kinh tế thế giới, tích cực tham gia vào mạng lưới FTA thế hệ mới, nổi bật là Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EU) – EVFTA.
Việc tham gia vào các mạng lưới đã góp phần không nhỏ giúp Việt Nam đạt được nhiều thành tựu quan trọng về phát triển kinh tế, mở rộng thị trường xuất khẩu, củng cố thị trường truyền thống, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội tham gia vào các thị trường tiềm năng trên thế giới, cũng như giúp cho người tiêu dùng Việt Nam có thể tiếp cận được nguồn hàng phong phú, chất lượng với giá cả hợp lí…
Nghệ nhân làm nón làng Chuông (xã Phương Trung, huyện Thanh Oai, Hà Nội)
Hiện nay, Hà Nội là nơi tập trung số lượng lớn làng nghề, chiếm tới 45% tổng số làng nghề của cả nước. Toàn thành phố có 1.350 làng nghề, trong đó có 327 làng nghề, làng nghề truyền thống đã được công nhận, với 6 nhóm nghề gồm: chế biến, bảo quản nông, lâm, thủy sản; sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ; xử lý chế biến, nguyên vật liệu phục vụ sản xuất ngành nghề nông thôn; sản xuất đồ gỗ, mây tre đan, gốm sứ, thủy tinh, dệt may, sợi, thêu ren, đan lát, cơ khí nhỏ; sản xuất và kinh doanh sinh vật cảnh; các dịch vụ phục vụ sản xuất, đời sống dân cư nông thôn.
Để phát triển bền vững, Hà Nội đã có nhiều chính sách nhằm thúc đẩy làng nghề phát triển gắn với du lịch. Bên cạnh những làng nghề nổi tiếng thu hút sự quan tâm của khách du lịch như: Lụa Vạn Phúc (quận Hà Đông), gốm sứ Bát Tràng (huyện Gia Lâm), Hà Nội còn có nhiều làng nghề tiềm năng phát triển trở thành điểm du lịch gắn kết với sản phẩm TCMN, như: mây tre đan Phú Vinh (huyện Chương Mỹ), thêu Quất Động (huyện Thường Tín), tò he Xuân La, khảm trai Chuôn Ngọ (huyện Phú Xuyên), phường rối Chàng Sơn (huyện Thạch Thất)...
Việc phát triển du lịch làng nghề, gắn kết sản phẩm thủ công mỹ nghệ với thị trường du lịch được coi là định hướng chung của thành phố Hà Nội hiện nay. Theo đó, các Sở, ngành, thành phố thường xuyên chỉ đạo các doanh nghiệp lữ hành đẩy mạnh việc xây dựng các chương trình, tour du lịch nhằm giới thiệu, quảng bá về các tiềm năng, thế mạnh của du lịch làng nghề truyền thống của Hà Nội; Triển khai các chương trình hợp tác phát triển du lịch với các huyện, thị xã thuộc thành phố và các địa phương trong cả nước để cùng phối hợp nâng cao chất lượng, kết nối các điểm đến, dịch vụ tạo ra các sản phẩm tour du lịch chất lượng…
Thợ thủ công khảm trai Chuôn Ngọ (xã Chuyên Mỹ, huyện Phú Xuyên, Hà Nội)
Bên cạnh những thế mạnh về phát triển văn hoá du lịch, làng nghề truyền thống của Hà Nội cũng tiểm ẩn nhiều khó khăn, thách thức, đã và đang là trở ngại không nhỏ trên hành trình hội nhập và phát triển; công tác phát triển nghề và làng nghề ở thành phố vẫn chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế của Thủ đô. Hiện nay, hầu hết doanh nghiệp làng nghề trên địa bàn đều có hoạt động ở quy mô nhỏ, tự phát và gặp phải không ít những khó khăn, như thiếu mặt bằng để sản xuất tập trung, thiếu đội ngũ lao động có tay nghề cao, thiếu vốn để đầu tư đổi mới công nghệ, thiết bị máy móc nhằm nâng cao sản lượng, chất lượng sản phẩm. Khả năng cạnh tranh của làng nghề thấp, nguồn nguyên liệu không ổn định, chưa tạo nhiều thương hiệu hàng hóa, sức tiêu thụ sản phẩm còn hạn chế.
Ngoài ra, các làng nghề truyền thống của thành phố Hà Nội vẫn chưa có sự đầu tư đồng bộ về kết cấu hạ tầng phục vụ phát triển các ngành công nghiệp văn hóa, như công trình phục vụ khách du lịch đến tham quan, mua sắm sản phẩm; các khu trưng bày giới thiệu sản phẩm, bãi đỗ xe, bãi thu gom rác thải, nhà hàng, khách sạn, hệ thống chiếu sáng; đội ngũ hướng dẫn viên, thuyết minh viên tại các làng nghề chưa được đào tạo bài bản về nghiệp vụ, chuyên môn và ngoại ngữ. Các cơ sở sản xuất chủ yếu là hộ kinh doanh gia đình, ít quan tâm tới việc tổ chức kinh doanh, xây dựng thương hiệu, quảng bá hình ảnh của nghề và làng nghề dẫn tới khả năng cạnh tranh không cao, chưa tạo được ấn tượng sâu sắc để thu hút du khách trở lại.
Để phát triển công nghiệp văn hoá tại các làng nghề trong bối cảnh Việt Nam tham gia vào mạng lưới FTA thế hệ mới, cần thiết có sự hài hoà giữa bảo tồn và phát triển. Đặc biệt là phát triển du lịch gắn kết với bảo tồn và phát triển các giá trị văn hóa; phát huy tính sáng tạo của người dân; tập trung vào xúc tiến thương mại, quảng bá, giới thiệu các sản phẩm làng nghề cho du khách trong và ngoài nước. Tham khảo mô hình một số nhà triển lãm kết hợp là trung tâm sáng tạo để người dân đến tham quan, học tập, nghiên cứu, thực hành về công nghiệp văn hóa, công nghiệp sáng tạo và kinh tế sáng tạo. Cùng với đó là cung cấp thông tin thường xuyên về thị trường, những quy định về chất lượng, mẫu mã sản phẩm, thị hiếu tiêu dùng để cơ sở sản xuất làng nghề có cơ sở định hướng sản xuất, xuất khẩu phù hợp. Xây dựng bộ tư liệu, thông tin về các làng nghề làm cơ sở quảng bá, phát triển du lịch làng nghề. Nâng cao trình độ, kỹ năng cho người lao động nhằm tạo ra sản phẩm có chất lượng ngày càng cao; tăng cường khả năng cạnh tranh để hướng tới mục tiêu xuất khẩu hàng hoá ngày càng bền vững./.
Khánh Quyên